Đoàn công tác của bu dưới bóng cây Kơnia, QL27 năm 2000
Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012
DƯỚI BÓNG CÂY CƠ NIA
Đoàn công tác của bu dưới bóng cây Kơnia, QL27 năm 2000
Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2012
NĂM TỴ NÓI CHUYỆN RẮN
Thứ Ba, 13 tháng 11, 2012
CÔ ĐƠN
Cô đơn là quả chín vàng
Thế gian trồng để tặng nàng tặng tôi
Mỉm cười hai đưa chia đôi
Nàng thương dành để cho tôi phần nhiều
Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012
HOA HẬU LÀ GÌ ??
II- Hoa hậu là từ Hán Việt, để định nghĩa nó bu liệt kê ra đây các chữ “hoa” và các chữ “hậu” sau đó tiến hành “lắp ghép” và phân tích.
* Về chữ hoa:
Người Tàu có 14 chữ hoa. Để cho ngắn gọn bu chọn ra hai chữ phù hợp với câu chuyện đang bàn.
1 - 華 (hoa): Vầng sáng, trong từ vinh hoa…
2 - 花 (hoa): Hoa của cây cỏ.
* Về chữ hậu:
Người Tàu có 6 chữ hậu, bu chọn ra hai chữ.
1- 後 (hậu): Sau (thời gian). Phản nghĩa với tiên 先, tiền 前.
2- 后 (hậu) : Vua, vợ vua.
* Lắp ghép các chữ hoa và các chữ hậu ta có bốn từ “hoa hậu”như sau:
1- 華 後 (hoa hậu): Sau vầng sáng
2- 華 后 (hoa hậu): Vua (hoặc vợ vua) được vinh hoa
3- 花 後 (hoa hậu): Phía sau bông hoa
4- 花 后 (hoa hậu): Vua các loài hoa (không thể nói vợ vua của các loài hoa)
III- Trong bốn từ hoa hậu ở trên thì bu tui chọn từ hoa hậu ở mục 4 làm “đáp án” trả lời. Hoa hậu 花 后 là vua các loài hoa. Xưa nay người đẹp được ví với hoa, vậy vua của các loài hoa là người đẹp nhất trong các người đẹp. Người đăng quang hoa hậu được đội vương miện (王 冕 ).Vương miện là gì? Là mủ của vua. Vậy vua của hoa mới được đội vương miện chớ dân đen thì làm sao mà đội được thứ đó?
Hehehe …bạn nào có cách giải thích đúng hơn xin được chỉ giáo
Bulukhin
Monday, September 17, 2012 10:42:19 AM
Thứ Bảy, 11 tháng 8, 2012
SỰ TÍCH TÊN LÀNG PHÚC LÂM VÀ ĐỈNH LÈN TIÊN GIỚI
Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012
CU BẮP
Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2012
PHONG NHA LÀ GÌ
1- Muốn biết vẻ đẹp kỳ ảo của động Phong Nha, các bạn hỏi bác Google sẽ biết được ngay. Bài này bu chỉ quan tâm đến tên gọi Phong Nha, điều mà không phải ai cũng nói đúng kể cả nhân viên hướng dẫn du lịch. Phong Nha là một từ Hán Việt, thông thường người ta vẫn nghĩ phong là gió (phong thủy, phong ba) nha là răng (nha khoa, nha sỹ). Thực ra, chữ Hán có tới 17 chữ phong và 9 chữ nha, vậy thì ghép phong (gió) với nha (răng) để chỉ tên động Phong Nha phải chăng là tùy tiện và võ đoán. Có lần một khách ngoại quốc bất thần hỏi người hướng dẫn du lịch Phong Nha là gì, anh này nghĩ nha là gia (nhà) nói trại đi nên giải thích “Phong Nha is the tooth of wind” (nhà gió). Một nhân viên hướng dẫn khác có đọc sách nói về thắng cảnh Việt
Du khách đứng trên cầu Xuân Sơn nhìn về thượng nguồn sông Son sẽ thấy vô vàn đỉnh núi đá vôi nhấp nhô như vô tận. Nơi ấy tàng chứa hàng trăm hang động nổi tiếng thế giới như Phong Nha, Tiên Sơn, Thiên Đường, Sơn Đoòng…Tạo hóa xếp hàng các đỉnh núi ở đây đợi chờ tổ chức Liên hiệp quốc từ hàng trăm triệu năm nay, mãi đến thế kỷ 21 mới được UNEXCO xưng tụng và cấp chứng chỉ “Phong Nha kẻ Bàng di sản Thiên nhiên thế giới”.
Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012
CHỈ TẠI CÁI ĐUÔI !
Cảnh Tây Hồ
NgườiTây Hồ
Bu và bút tích vua Càn Long "Hoa cảng quan ngư"
(ở Tây Hồ , Hàng Châu)
Catulaho là bạn ảo của bu từ thời Zàhu 360. Zàhu sập tiệm “Người Cà Tu làng Ho” cũng bỏ cuộc luôn. Mới đây nàng meo cho bu hỏi “Em có đọc bài “Hầu chuyện thầy Thích Trí Giải về chữ nhẫn” của anh nên có biết sơ sơ về bộ trong chữ Hán. Những từ như: chước (đốt), tai (cháy nhà), xuy (thổi nấu), viêm (bốc cháy) đều có bộ hỏa thì không còn gì để bàn. Đằng này con chim yến, khi viết về nó cũng có bộ hỏa thì lạ, nhờ anh giải thích hộ cho”.
***
1- Câu hỏi của bạn làm bu nhớ hôm đi loanh quanh trên bờ Tây Hồ ở Hàng Châu (Trung quốc) thấy người ta xúm xít quanh một tấm bia. Người nào cũng cố chen vào để sờ cho được bốn chữ Hán màu đỏ trên bia, không sờ đủ bốn chữ thì chí ít cũng sờ cho được chữ dưới cùng. Đấy là chữ ngư (魚, cá). Người thuyết minh tấm bia cho hay, sinh thời vua Càn Long (1711- 1799) tự tay viết 10 bài giới thiệu cảnh đẹp Tây hồ, gọi là “Tây hồ thập cảnh”, chẳng hạn như: 三 潭 印 月 (tam đàm ấn nguyệt) Ba đầm nước phản chiếu ánh trăng, 斷 橋 殘 雪 (đoạn kiều tàn tuyết) Tuyết còn sót lại trên cầu gãy, 雙 峰 插 雲 (Song phong sáp vân) Hai ngọn núi đâm vào mây…Và câu mà mọi người đang háo hức sờ vào là 花 港 觀 魚 (hoa cảng quan ngư) Xem cá ao hoa.
Có chuyện kể, vua Càn Long viết xong ba chữ 花 港 觀 (hoa cảng quan) thì nắn nót viết chữ ngư (魚) nhưng mới hạ bút điểm được hai chấm trong số bốn chấm của bộ hỏa (灬 )(1) thì ông nổi cáu to tiếng hỏi đám quần thần: Tại sao cá ở dưới nước mà lại có bộ hỏa? thế là cá bị nướng hết sao? Phi lý! Vậy là chữ ngư (魚) khắc trên bia ngày nay bộ hỏa chỉ có hai chấm thay vì bốn chấm, kích thích sự tò mò của mọi người. Bu chờ cho vãn người, cũng sờ tay vào chữ ngư “què” ấy và nhờ ông bạn BOBI chụp cho một tấm ảnh làm kỷ niệm như các bạn đã thấy.
2- Hihihi…thắc mắc của vua Càn Long được khắc bia để đời, còn thắc mắc của catulaho về bộ hỏa của chim yến thì chỉ meo cho bu hầu chuyện chơi. Thế cũng thú vị lắm chứ sao.
Nói ngắn gọn là chữ ngư (魚, cá) và chữ yến (燕, chim) đều là chữ tượng hình có từ đời nhà Thương (khắc trên xương thú cách nay khoảng 3700 năm) gọi là chữ giáp cốt. Hình vẽ cá và chim trong giáp cốt văn có đuôi là hai mũi nhọn tòe ra y như thật (xem hình và click đúp nhìn cho rõ) sang thời kim văn, tiểu triện, đuôi vẫn còn. Đến đầu đời Hán (203tcn-220scn) chữ lệ thư xuất hiện, các nhà cải cách thấy cái đuôi lòng thòng quá bèn thay nó bằng bốn chấm (灬) Có thể ngẩu nghiên chăng, bốn chấm ấy trùng với bộ hỏa, thế là cá bơi dưới nước, chim yến bay trên trời bị mang bộ hỏa. Đến như các chữ 熊 (hùng, con gấu) 馬 (mã, con ngựa) 烏 (ô, con quạ) cũng có bộ hỏa (灬 ) chung quy chỉ tại… cái đuôi!!
(1) Thực ra hỏa trong bộ ngư không thể gọi là bộ. Bu tạm nói theo người thuyết minh cho dễ diễn đạt. Vì tra bộ hỏa sẽ không có được chữ ngư. Bản thân chữ ngư là một bộ.
Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012
HẦU CHUYỆN THẤY THÍCH TRÍ GIẢI VỀ CHỮ NHẪN .
Tìm về cội nguồn chữ Hán của Lý Lạc Nghị và Jim watrs
Người hầu chuyện thầy Trí Giải
Theo đường dẫn http://nguoihieuco.blogspot.com/2012/05/chu-nhat.html của bạn truonghoanluyen72 cấp cho, bu đã đọc bài viết của thầy Thích Trí Giải bàn về chữ NHẪN. Sau đây là trích đoạn ý kiến của thầy
****
1- Trước hết phải nói rằng: “Chữ Nhẫn được hình thành từ 心 (tâm) + 刃 (nhận) = 忍” như ý kiến của thầy Trí Giải là không sai nhưng không hoàn toàn đúng. Bu đã tìm trong 5 quyển từ điển Hán Việt và quyển “Tìm về cội nguồn chữ Hán” (của Lý Lạc Nghị (Tàu) và Jim Waters (Mỹ)) thấy như sau:
- Các từ điển của Trần Văn Chánh (tr.742), Nguyễn Tôn Nhan (tr. 139), Thiều Chữu (tr. 50), chữ 刃 đọc là nhận.
- Các từ điển của Trần thị Thanh Liêm (tr.436), của Đào Duy Anh (tr.67) chữ 刃 đọc là nhẫn
- Sách Tìm về cội nguồn chữ Hán (tr. 481), chữ 刃 vừa đọc nhận vừa đọc nhẫn. Cụ thể, khi nói về chữ nhẫn (忍) có nghĩa là nhẫn nại thì 刃 đọc là nhẫn (người Hán có 10 chữ Nhẫn, mà 刃 và 忍 chỉ là 2 trong 10 chữ đó)
- Điều cẫn lưu ý là: Chữ 刃 cho dù đọc nhẫn hoặc nhận, thì các từ điển trên đều giải nghĩa là: Mũi nhọn cứng. lưỡi đao cứng, gọi chung các loại binh khí. Giết.
2- Thầy Trí Giải Viết “Sau này người viết chữ thường hay viết chữ Nhẫn như sau: 心 tâm + đao 刀 + bộ chủ 丶thành chữ Nhẫn…Người tu chữ Nhẫn cần có 丶 (chủ) tức là làm chủ cái nguy hiểm, làm chủ cơn sân giận. Khi viết chữ Nhẫn bộ chủ (丶) này nằm trên bộ đao 刀”
Viết như vậy là thầy Trí Giải nhầm lẫn bộ trong chữ Hán với bản thân chữ Hán. Nên nhớ rằng người Hán có vào khoảng 7000 chữ thường dùng, trong khi chỉ có 214 bộ. Bộ chữ Hán xếp theo thứ tự từ 1 nét đến 17 nét. Mỗi chữ Hán chỉ thuộc về 1 trong 214 bộ, và chỉ thuộc về 1 bộ mà thôi. Đừng nghĩ rằng để viết được 7000 chữ Hán thì phải có 7000 bộ, mà chỉ cần 214 bộ là đủ. Vì chẳng hạn bộ thủy (水) có trong 326 chữ, bộ hỏa (火) có trong 126 chữ, bộ nhất (一) có trong 22 chữ…Thực ra, 214 bộ cũng là 214 chữ, chỉ khi nào những chữ đó đứng kèm một chữ khác để chỉ một nghĩa nào đó thì nó được gọi là bộ, còn khi đứng một mình thì nó không còn gọi là bộ nữa. Ví dụ chữ thủy (水) là nước, nhưng khi đứng bên trái chữ công (工) thì chữ thủy đó được gọi là bộ thủy, nó cùng với chữ công (工) tạo thành chữ giang (江) tức là sông, trong đó bộ thủy chỉ nghĩa, chữ công chỉ âm đọc ( ba chấm氵 bên trái chữ công là một cách viết chữ thủy). Trở lại những chữ ta đang bàn thì chữ Nhận 刃 (hoặc Nhẫn ) gồm có chữ đao (刀 ) và bộ chủ (丶) chứ không phải là bộ đao (1). Riêng chữ Nhẫn 刃 (hoặc Nhận) thì đao (刀) không đóng vai trò bộ như thầy Trí Giải nói, mà nó là một chữ thông thường. Nên nhớ rằng chữ Nhẫn (忍) với nghĩa nhẫn nại, gồm có chữ nhẫn 刃 (hoặc nhận) và bộ tâm (心). Muốn tra chữ Nhẫn như vừa nói, ta phải tra bộ tâm (心) chứ tra bộ đao (刀) hoặc bộ chủ (丶) thì có sống đến vô lượng kiếp sau cũng không thể tra được.
3- Thầy Trí Giải cho rằng “Người tu chữ Nhẫn cần có chủ (丶) tức làm chủ cái nguy hiểm, làm chủ cơn sân giận”. Vậy là thầy đã gán ghép ý nghĩa tu hành vào trong cấu tạo chữ Hán. Bộ chủ (丶) trong chữ Nhẫn 刃 (hoặc nhận) hoàn toàn không có ý nghĩa chủ trong chủ yếu, chủ đạo, chủ đích, chủ thuyết như thầy nghĩ…Mời thầy nghe ông Thiều Chữu giải thích bộ chủ (丶): “ Phàm vật gì cần có phân biệt, sự gì cần biết nên chăng, lòng đã có định, thì đánh dấu chữ chủ để nhớ lấy”. Đánh dấu để nhớ thì không ăn nhập gì với làm chủ cơn sân giận cả.
Để làm rõ hơn cấu tạo chứ Nhẫn (hoặc Nhận) bu giới thiệu trang 481 sách “Tìm về cội nguồn chữ Hán”. Chữ Nhẫn 刃 được minh họa bằng một lưỡi dao cong, trong đó phần sắc của dao được đánh dấu bằng hình tròn có nhiều vạch song song. Chính cái hình tròn ấy dần dà biến hóa thành bộ chủ tạo nên chữ nhẫn 刃 (hoặc nhận). Đây là chữ điển hình cho loại chữ “chỉ sự” như thuyết minh đã mô tả.
Trong trường hợp cần thiết, thầyThích Trí Giải có thể nhân sự tình cờ của cấu tạo chữ Nhẫn (忍) để hoằng hóa Phật pháp, tuy nhiên không thể quy cho người tạo ra chữ nhẫn là cốt để truyền thụ giáo pháp cho chúng sinh.
******
(1): Chữ đao (刀) có lúc cũng trở thành bộ đao để tạo nên khoảng 80 chữ được liệt kê trong từ điển Thiều Chữu như các chữ: 分 phân: chia. 切 thiết: cắt. 划 Hoa: chèo thuyền. 利 lợi: sắc, lợi lộc. 剸 Chuyển: Đẵn, chặt……
(2): 忄, 心 đều là chữ tâm, cũng có lúc nó trở thành bộ tâm