|
Phật A di đà |
Khi nói tới Phật giáo ai cũng nghĩ đến Đức Phật Thích ca Mâu ni. Rất nhiều chúng sinh, kể cả Phật tử, khi vào chùa niện “nam mô A di đà Phật”, cứ tưởng rằng nam mô A di đà là lời xưng tán dâng lên đức Phật Thích ca. Thực ra, A di đà là tên vị Phật - giáo chủ môn phái Tịnh độ tông - thuộc trường phái Đại thừa ở Tây phương Cực lạc. Tất cả kinh sách của Tịnh độ tông không nói, hoặc nói rất ít về xuất xứ đức Phật A di đà, nên tìm hiểu về ông cũng là cần thiết cho những ai quan tâm đến Phật giáo hiện nay. (Trong bài viết này bu tui tham khảo kinh Bi Hoa, kinh Diệu Pháp Liên hoa, bài viết của thầy Thích Hữu Thiện về Phật A di đà, Đường về Cực Lạc của HT Thích Trí Tịnh, từ điển Phật học của Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách)…
A- XUẤT XỨ DANH HIỆU A DI ĐÀ
Theo kinh Bi Hoa (1) thì sinh thời, đức Phật Thích ca đã có một cuộc thuyết Pháp cho sáu mươi hai ngàn vị La hán cùng bốn trăm bốn mươi vạn vị Bồ tát tại núi Linh Thứu (2). Ngài cho hay, trong Hằng hà sa số kiếp (3) trước có một đại kiếp tên là Thiện trì. Trong đại kiếp ấy có cõi Phật San đề lam và một vị vua tên là Vô Tránh Niệm làm chủ bốn cõi thiên hạ. Triều đình nhà vua có vị đại thần tên là Bảo Hải dòng dõi Phạm chí (4) sinh hạ được một con trai với ba mươi hai tướng tốt, lớn lên xuất gia theo nghiệp tu hành, trở thành Đức Phật Bảo Tạng Như lai. Ngày kia đức Phật Bảo Tạng đến khu rừng Diêm phù (5) cách thành An Chu La không xa, mở Phật hội thuyết Pháp. Nghe tin đó vua Vô Tránh Niệm lấy làm hoan hỷ, liền cùng với một ngàn người con và tám mươi tư ngàn vị tiểu vương rời thành An Chu La đến ngay khu rừng Diêm phù. Vua lễ Phật, những vị còn lại ngoài lễ Phật còn lễ các vị Thanh văn (6). Trong ba tháng ròng, hằng đêm vua Vô Tránh Niệm cung kính thắp lên vô lượng ức na do tha (7) ngọn đèn. Trên đầu ngài đội một ngọn đèn, hai vai đặt hai ngọn đèn, hai bàn tay cầm bốn ngọn đèn, trên hai đầu gối đặt hai ngọn đèn, trên hai bàn chân cũng đặt hai ngọn đèn. Nhờ oai lực của Phật Bảo Tạng mà ngài giữ yên các ngọn đèn như vậy suốt đêm không hề mỏi mệt và thân tâm vẫn sảng khoái. Sau một thời gian chứng kiến các nghi nghi lễ trên, đại thần Bảo Hải thưa với vua Vô Tránh Niệm : Đại vương! Nay đại vương nên phát thệ nguyện nhận lấy cõi Phật vi diệu. Nhà vua liền nghe theo và cung kính trước đức Phật BảoTạng: Bạch Thế tôn, nay con muốn được đạo Bồ đề…Vừa qua trong vòng bảy năm con đã ngồi yên tĩnh tư duy về số những cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm khác nhau…nay trước oai lực đức Bảo Tạng Như lai con xin phát nguyện (8):
1- Nguyện sau khi được thành Phật, con sẽ thực hiện một thế giới đủ sự vui đẹp. Nhân dân trong cõi ấy không có những đường địa ngục, ngạ quỷ, và súc sinh. Hết thảy chúng sinh trong cõi ấy chẳng khi nào còn thối chuyển mà đọa vào trong ba đường dữ đó nữa. Người nào cũng đủ sáu phép thần thông và căn thân tốt đẹp
2- Nguyện tất cả chúng sanh được về cõi ấy đều thành đàn ông tươi tốt, không còn thọ báo sắc thân đàn bà, và cũng chẳng cần có danh hiệu của người đàn bà nữa. Hết thảy chúng sanh khi được về đó, thần thức được đầu thai trong bông sen. Lúc bông sen nở ra thì căn thân tươi tốt, thọ mạng lâu dài.
3- Nguyện cõi ấy được trang nghiêm, cảnh vật thật xinh đẹp, không có mọi sự nhiễm trược, hằng có hoa tốt, hương thơm, mùi bay các hướng.
4- Nguyện cho chúng sanh cõi ấy ai nấy đều có ba mươi hai tướng tốt, sáu phép thần thông. Dẫu có vân du các cõi Phật trong mười phương để cúng dường và nghe Pháp, thì khi trở về cũng chưa trể bữa ăn.
5- Nguyện nhân dân trong cõi ấy đều được mọi sự thọ dụng tự nhiên, đúng giờ ăn thì có đủ các món ngon vật lạ hiện ra trước mắt, còn muốn bận đồ gì thì có ngay xiêm áo tốt đẹp hiện ra bên mình, không cần phải sắm sửa như trong cõi nhân gian vậy.
6- Nguyện có được một cõi Phật như vậy, để từ rày về sau đời đời kiếp kiếp chúng sanh tu hạnh Bồ tát, tạo thành cõi Tịnh độ, đến thời kỳ chứng đạo thì ngồi dưới cây Bồ đề mà thành Chánh quả Chánh giác, phóng hào quang soi các thế giới cho các đức Phật đều xem thấy, đặng khen ngợi danh hiệu của con
7- Nguyện sau khi thành Phật, những loài chúng sinh ở trong thế giới khác đã có tu tập thiện căn, hể nghe danh hiệu con mà muốn sinh về cõi con thì lúc lâm chung đặng vãng sanh, chỉ trừ những
người phạm tội ngũ nghịch (9), tội chê bai các Pháp Đại thừa và phá hư Chánh Pháp mà thôi.
8- Nguyện sau khi thành Phật, mà có chúng sanh ở các thế giới đã phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát đạo, muốn sanh về cõi con, thì đến khi mạng chung, con và các đệ tử đều hiện thân đến trước mặt người ấy đặng tiếp dẫn.
9- Nguyện khi con nhập diệt, trãi vô số kiếp về sau, những người nữ nhân ở trong các thế giới nghe danh hiệu con mà chăm lòng vui mến và phát bồ đề tâm, cho đến lúc thành Phật, cứ cảm báo được làm thân đàn ông hoài, chớ không khi nào còn muốn làm thân đàn bà nữa.
Bạch đức Thế tôn ! Con nguyện đặng cõi Phật như vậy, chúng sanh như vậy, mọi sự thanh tịnh trang nghiêm như vậy, thì con mới chịu thành Phật.
Đức Bảo Tạng Như lai nghe vua Vô Tránh Niệm nguyện mấy lời ấy thì khen hay thay, hay thay. Đại vương phát nguyện sâu lớn, thực mong có một cõi thanh tịnh. Kìa! Đại vương, hãy nhìn về phương tây, cách trăm muôn ngàn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Tôn Thiên Vô Cấu, giáo chủ cõi ấy hiệu là Tôn Âm Vương Như lai, hiện nay đang vì các bậc Bồ tát mà giảng dạy Pháp Đại thừa. Trong cõi ấy không có chúng sanh căn trí Tiểu thừa và cũng không có một nữ nhân. Qua hàng ngàn trung kiếp sau, thế giới ấy còn qua nhiều vị Phật giáo hóa… Cho đến khi đức Phật Bất khả Tư nghị Công đức vương Như lai nhập niết bàn thì đại vương! Lúc ấy ông sẽ thành Phật Vô Lượng Thọ Như Lai. Cũng là đức Phật ADI ĐÀ
B- NGÀY ĐẢN SANH ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Trả lời câu hỏi “A di đà ông là ai” bu tui không muốn nói vắn tắt vua Vô Tránh Niệm là tiền kiếp của Phật A di đà, mà còn muốn nói thêm quê hương bản quán, họ tên song thân, cùng ngày sanh tháng đẻ của ngài nữa, nhưng đây là điều cực khó. Với kinh Bi Hoa và kinh Diệu Pháp Liên hoa do chính phật Thích ca thuyết, ta chỉ biết được đức Phật Đại Thông Trí Thắng Như lai ở nước Hảo Thành, kiếp Đại Tướng, lúc chưa thành Phật ngài có mười sáu con trai, cũng là mười sáu vị Sa di. Vị Sa di thứ chín là vua Vô Tránh Niệm, tiền thân Phật A di đà, vị Sa di thứ mười sáu là tiền thân của Phật Thích ca. Như vậy Phật A di đà và Phật Thích ca từ ức vạn đại kiếp trước là anh em cùng bố (không rõ mẹ). Bởi thế, khi Huệ Viễn (334-416) một cao tăng Trung Quốc sáng lập phái môn Tịnh độ lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, thì Phật tử ba nước ấy rất bối rối khi làm lễ đản sanh cho đức A di đà. Cuối cùng, Phật tử ba nước chấp nhận lấy ngày sinh của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư là 17 tháng 11 âm lịch hằng năm làm ngày đản sanh đức Phật A di đà, xem như đại sư là hóa thân của Phật A di đà vậy.
Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư là Thiền sư Trung Quốc, thuộc tông Pháp Nhãn. Sư họ Vương, quê ở Dư Hàng mộ đạo từ nhỏ, không ăn thịt cá, mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Năm 28 tuổi sư làm quan trấn ở Hoa Đình và có dịp tiếp xúc với Thiền sư Thúy Nham Vĩnh Minh. Sư lễ Thúy Nham làm thầy, suốt ngày làm việc phục vụ chúng sinh, quên bổn phận làm quan. Sư còn lấy công quỷ mua cá phóng sinh, việc bị phát giác và triều đình xử tội tử hình. Lúc dẫn sư ra pháp trường lãnh án chém, Văn Mục vương bí mật sai người theo dõi nét mặt, nếu sư run sợ thì cứ chém, còn sư bình thản như không thì đem ngài về trình lại. Quả nhiên lúc gươm kề cổ, nét mặt sư vẫn vui tươi. Sau nàyVăn Mục Vương hỏi, ông không sợ chết chém ư? Tôi tư dụng của công khố một số tiền lớn, tội đáng chết, nhưng toàn bộ số tiền đó tôi mua được muôn ức sinh mạng, dẫu tôi có chết vẫn được vãng sanh về cõi Tịnh độ, chẳng việc gì phải sợ. Sư tu Thiền nhưng lòng rất mộ Tịnh. Ngài đã đến Thiền viện của Trí giả đại sư làm hai lá thăm, một lá đề “Nhất tâm Thiền định”, một lá đề “Trang nghiêm Tịnh độ”. Sau bảy lần rút thăm, đều trúng lá “Trang nghiêm Tịnh độ”. Từ đấy sư nhất tâm tu Tịnh nghiệp. Niên hiệu Khai Bảo năm thứ tám (975) tháng chạp sư có chút bệnh. Buổi sáng ngày 26 sư thắp hương từ biệt chúng rồi ngồi kết già thị tịch, thọ 72 tuổi, 42 tuổi hạ.
*******
(1) Kinh Bi Hoa: NXB Tôn giáo 2007
(2) Linh Thứu: Dịch theo âm là Kỳ Xà Quật, có nghĩa là núi “Kên Kên”, một ngọn núi nhỏ gần thành Vương Xá, nơi đức Phật Thích Ca hay dừng chân.
(3) Kiếp: Có ba loại, tiểu kiếp có 16.800.000 năm, một trung kiếp có 336.000.000, một đại kiếp có 1.334.000.000. Những con số này có tính cách tượng trưng để biểu thị một thời gian rất dài
(4) Phạm chí: Danh từ này cũng được dùng để chỉ chung cho các tu sĩ ngoại đạo, ở đây chỉ dòng dõi Bà la môn
(5) Diêm phù: Tên một loài cây, cũng gọi là Diêm phù đàn.
(6) Thanh văn: Nghĩa là người nghe, học trò của Đức Phật, trong Đại thừa từ Thanh văn chỉ những ai chứng tri kiến Tứ diệu đế và tính Không của thế giới hiện tượng.
(7) Na do tha: Từ chỉ số lượng của Ấn Độ thời cổ, có rất nhiều cách giả thich khác nhau, Ở đây lấy theo kinh Bổn Hạnh, na do tha là một ngàn vạn, tức mười triệu (Phật Quang đại từ điển viết là na do đa)
(8) Trong Kinh Bi Hoa, vua VôTránh Niệm Phát nguyện 9 điều. Nhưng trong kinh Vô Lượng Thọ cũng do Đức Thích Ca thuyết thì nhà vua phát nguyện đến 48 diều. Ở Tu viện Đại Tòng Lâm Bà Rịa, 48 lời nguyện này được minh họa bằng 48 bức tượng đá hoa cương vô cùng to lớn.
(9) Ngũ nghịch: Năm tội lớn, 1- giết cha, 2- giết mẹ, 3- giết một vị La Hán, 4- làm đổ máu Phật, 5- Chia rẽ Tăng già.