Thánh Gióng
Trong Facebook nhà Phan Khiêm, ông đạo diễn phim
truyền hình Sói Đồng Hoang hỏi bu
Bác Bu Lu Khin có nhớ cái vụ câu đối mà em đưa vào phim
BÍ THƯ TỈNH ỦY không. Đó là câu đối mà ông Ngô Đình Diệm
vẫn treo trên đầu gường ngủ
"Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết
Đáo lăng vân xứ dã hư tâm"
Thưa rằng bu tui không chỉ
nhớ mà sau khi xem phim Bí thư Tỉnh ủy
đã viết TẢN MẠN TRE đăng trên blog Multiply, trên báo tết Quảng Bình. Nay tái bản
có chữa lại, mời các bạn đọc và chỉ giáo
***
Cây tre đi vào huyền thoại
và gắn bó với người Việt đã bao đời nay. Có lẽ phải từ thời Thánh Gióng nhổ tre
phá tan giặc Ân, và hoàng tử Lang Liêu dùng lạt tre gói bánh chưng dâng vua
Hùng. Đến thế kỷ 20 tre lại theo người ra trận. Gậy tre tầm vông theo bộ đội đánh
Pháp. Chông tre của đồng bào Miền Nam đánh Mỹ. Măng tre đi vào bữa ăn người chiến
sĩ, lá tre tươi nguỵ trang che mắt quân thù, lá tre khô được anh nuôi thay củi
đun bếp. Sang thời hiện đại, đụng vào đâu trong gia đình người Việt cũng gặp
tre. Từ cái đũa tre, tăm tre, nơm bát cá, cho đến cái chổi tre, quạt nan tre…
Trong ẩm thực, con cháu nhà tre làm vui lòng bạn bè năm châu bốn biển bằng những
thực đơn nhắc đến đã thấy ngon: Bún măng, măng xào củ hành, măng kho thịt. Tre
đi vào văn hoá địa danh với những: Tỉnh Bến Tre , hồ Trúc Bạch, Bến Nứa, Trúc
Lâm Yên Tử, Khe tre, Suối Lồ ô...Người Nhật xem mận, thông, và tre, là những
cây báo điềm lành. Tre cũng là yếu tố chính trong hội họa đời Tống, chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của Phật giáo Thiền. Người
Bamoun và người Bamiléké thuộc Ca mơ run (Phi châu) gọi mỗi đốt tre là một nụ cười (Guis) - biểu
tượng của niềm vui sống giản dị, không bệnh tật chẳng ưu tư (1). Thế nhưng, các
nhà thông thái đã tốn khá nhiều giấy mực để bàn về cây tre. Cũng cái cây ấy
nhưng khi này tre, khi khác trúc. Sách "Điển cố văn học" (2) ở trang
412 có câu: "chặt hết trúc trên núi Nam Sơn, chẻ thành tre cũng chẳng đủ để
ghi tội ác Tuỳ Dượng Đế"(3). Hoá ra tre là mảnh nhỏ của trúc ?. Từ điển tiếng
Việt ở trang 1028 ghi: "Trúc - tên gọi chung của các loài tre nhỏ, gióng
thẳng". Thành ngữ "Trúc chẻ ngói tan" được từ điển này giải
thích: "Vì thế quân địch mạnh như chẻ tre, đánh đến đâu quân đối phương
tan rã đến đó". Vậy trúc chẻ ...tức chẻ tre! Trúc chẻ chữ Hán là phá trúc,
mà phá trúc người ta dịch ra tiếng Việt là chẻ tre. Uyên bác như cụ Đào Duy Anh
mà Trong từ điển truyện Kiều cũng gián tiếp đồng ý như thế. Sự oái oăm này
chung quy do cái kho từ vựng của mỗi nước trái hèo nhau. Ngoài ra còn do trong
văn chương của ta ngày xưa chữ tre không được dùng, chữ trúc không dược dịch.
Tre (thanh bằng) không thể thay thế cho trúc (thanh trắc) được. Rốt cuộc các
tác giả đã chọn cái hay nhưng tối nghĩa, thay cho cái đúng nằm ngoài vòng luật
lệ. Thử tưởng tượng hai câu lục bát sau đây mà thay chữ trúc bằng chữ tre, đọc
lên sẽ ngang như cua bò.
Thu ăn măng trúc, đông ăn
giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm
ao
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Miệng ăn măng trúc, măng
mai
Những giang cùng nứa lấy
ai bạn cùng
(ca dao)
Nguyễn Trãi viết Bình Ngô
đại cáo bằng chữ Hán, ông buộc phải dùng chữ trúc trong hai câu:
Quyết Đông hải chi thuỷ, bất túc dĩ trạc kỳ ô
Khánh Nam sơn chi trúc , bất túc dĩ thư kỳ ác
Cụ Bùi Kỷ không thể biến
trúc thành tre mà phải dịch:
Tát cạn nước Đông Hải,
không đủ rửa vết nhơ
Chặt hết trúc Nam Sơn,
không đủ ghi tội ác
Với người Việt, cây tre
còn là biểu tượng cho tinh thần đoàn kết dân tộc, "bụi tre che tứ
phía". "Tre già măng mọc" là thế hệ trước nằm xuống, thế hệ sau
vươn lên giữ cho trường tồn nói giống . Đã có chiến sĩ hy sinh trong trận chiến
với tư thế đứng tựa vào cây rừng, miệng chưa tắt hết nụ cười, như cây tre cuối
đời còn gửi vào trời đất chùm hoa duy nhất màu vàng rơm lúa. Trong văn chương
dân gian nói về cây tre hay nhất có lẽ là câu đối
Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết
Đáo lăng vân xứ dã hư tâm
(未 出 土 時 先 有 節
到 崚 雲 處 也 虚 心)
Chưa mọc lên khỏi mặt đất
đã có đốt
Chạm đến mây trời ruột vẫn
rổng không
Dân gian nói tre mà chính
là nói người. Một thứ người siêu việt vừa dân tộc vừa nhân loại. Chủng tộc tre
cũng có nam có nữ, có tre đực tre cái. Tre biết nghe, chả thế mà người đời nhắc
nhau "bụi tre có lỗ tai", liệu mà giữ mồm giữ miệng. Biết nghe thì phải
biết nhìn để mà phân biệt, để mà đối xử. Mắt tre được cho là một thứ tuệ nhãn
nhìn thấu suốt triết lí sâu xa. Lại có tre bánh tẻ đi vào ca dao, tôn vinh tình
yêu con người
Lạt này gói bánh chưng
xanh
Cho mai lấy trúc cho anh
lấy nàng
Chưa ai nói đến miệng tre
bao giờ nhưng " tiếng tre kẻo kẹt thì một vài bậc hiền minh coi là tiếng
hiệu của sự thông tuệ" (4) Cho nên cái cơ thể tre bé bỏng kia chưa nhú lên
khỏi mặt đất (vị xuất thổ thời) đã hàm chứa hình hài một cơ thể hoàn chỉnh
(tiên hữu tiết). Đấy chính là cái nhìn "nhân chi sơ tính bản thiện" của
ông cha ta trong bài học làm người. Cây tre chỉ hút tinh đất, khí trời, và ánh
sáng mà lớn lên và tu luyện cho đến lúc
chạm đến xứ mây (đáo lăng vân xứ) của ngài Lão Tử thì rổng không thân mình. Đến
đây thì Phật và Lão gặp nhau cùng “thoát ra ngoài các cơn lốc hình ảnh, các ham
muốn và cảm xúc, thoát ra khỏi bánh xe các cuộc đời phù du, để chỉ còn cảm thấy
niềm khát khao cái tuyệt đối" (5) .
Câu đối 14 từ Hán Việt, dịch
ra 16 chữ Quốc ngữ chỉ nói về giống tre của xứ sở. Và những ai học hết sách
thánh hiền, thông tuệ thiên kinh địa nghĩa, liệu có đáng nghiền ngẫm thêm bài học
về cây tre không ??
-----------------------------------
(1) (4) (5): Sách Biểu tượng văn hoá thế giới của Jean
Chevalier và Alain gheerbrant nxb Đà Nẵng, trường viết văn Nguyễn Du 1997.
Bamoun và Bamiléké là những vùng đất thuộc Cameroun, châu phi.
(2) Điển cố văn học: Nhà XBKHXH- Hà Nội 1977 Đinh Gia
Khánh chủ biên
(3) Tuỳ Dượng Đế: Sách
"Điển cố văn học" có thể nhầm, vì Tuỳ Thư quyển 3 gọi tên nhân vật
này là Tuỳ Dạng Đế Dương Quảng (569-618 )- vị Hoàng Đế thứ 2 của triều Tuỳ, cực
kì xa hoa và dâm đảng, bị những kẻ nổi dậy thắt cổ chết tháng 3 năm thứ 14
(618)