Bồ đề Đạo Tràng (ở Ấn Độ ) nơi thái tử Tất Đạt Đa thành Phật
Đại tháp ở Bồ đề ĐạoTràng
Đại tạng kinh Việt Nam
6 giờ sáng, bu tui đứng trước thang máy
chuẩn bị xuống đất đi bộ thì gặp phải ông bạn hàng xóm. A.. ông bu, tui đọc “Tìm lời Phật thuyết ở
đâu” của ông trên Phây búc. Về đại thể
ông nói có lý, ngoài Nikaya và A Hàm ra
thì còn biết tìm ở đâu nữa. Nhưng tui hỏi thiệt, ông có tin toàn bộ những gì
trong Nikaya và A Hàm là do Phật thuyết cả không.
Bu đành bỏ cuộc đi bộ kéo bạn
vào nhà…
**********
1- Ông hỏi rất hay và trả lời cho rốt
ráo cũng không dễ. Vào quầy bán sách Phật
ở các nhà sách, gần như giở bất cứ quyển kinh nào ra ta cũng thấy câu đầu tiên
“như thị ngã văn” tức là “tôi nghe như vầy”, ngụ ý rằng bản kinh này do ông A Nan nghe chính đức Phật
thuyết giảng, nay nói lại cho mọi người nghe.
Đến như môn phái Tịnh độ tông do nhà sư Tàu là Huệ Viễn (334 - 416) sáng
lập khoảng thế kỉ thứ 3 sau Tây lịch, lúc này đức Phật dã tịch diệt khoảng 800
năm, vậy mà kinh Vô Lượng Thọ của môn phái này vẫn viết rằng do chính đức Phật
thuyết, và câu đầu tiên vẫn là “Tôi nghe như vầy”. Bu tui chắc chắn rằng, sau
khi Phật tịch diệt, các Tổ lập ra môn phái này môn phái nọ, viết kinh sách phục
vụ cho môn phái mình đều ghi là Phật thuyết để mọi người tin. Cũng chính vì thế Phật giáo Đại thừa ngày nay
còn có tên PHẬT GIÁO PHÁT TRIỂN.
2- Theo Phật sử thì những gì đức Phật
thuyết giáo đều có trong kinh Nikaya hoặc kinh A Hàm, tuy nhiên bu tui vẫn thấy
trong cả núi kinh đồ sộ ấy nhiều điều rất đáng ngờ. Bu tui đưa ra hai dẫn chứng
sau đây:
Dẫn chứng 1: ( trang 329 Kinh Đại Niết Bàn của Trường Bộ kinh)
* Khi đức Thế Tôn sắp diệt độ, tôn giả A nan hỏi ngài: Bạch Thế Tôn, cần phải xử sự thân xá lợi
Như Lai như thế nào. Này A nan, xử sự thân Chuyển luân thánh vương như thế nào,
hãy xử sự thân xá lợi Như Lai như thế. Bạch Thế Tôn, người ta xử sự thân Chuyển
luân thánh vương như thế nào. Này A nan, thân của Chuyển luân thánh vương được
vấn tròn với vải mới. Sau khi vấn vải mới xong, lại được vấn thêm vải gai bện.
Sau khi vấn vải gai bện, lại vấn thêm vải mới, và tiếp tục như vậy cho đến năm
trăm lớp cả hai loại vải. (1)
Cứ như di chúc của đức Thế Tôn thì 250 lớp vải mới cộng
thêm 250 lớp vải gai bện sẽ có chiều dày khoảng
2,5 mét. Đây là điều khó hiểu. Sinh thời đức Phật nhặt vải vụn khâu áo mặc,
nhưng sau khi tịch diệt lại bảo đệ tử quấn quanh mình một lớp vải dày đến thế
là quá xa hoa lãng phí. Có lẽ các vị chép kinh Đại Niết Bàn vì quá yêu quý đức
Phật mà phóng đại ra, chớ đức Phật không di chúc như thế.
Dẫn chứng 2: (trang318-319-325 kinh Đại Niết
Bàn của Trường Bộ kinh)
“… Thợ sắt Cunda, sau
khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ liền
“Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con ngày mai đến dùng cơm với
chúng Tỷ kheo”, Thế Tôn im lặng nhận lời”
…..
Thợ sắt Cunda, sau khi
đêm đã mãn, liền cho sửa soạn tại nhà các món ăn thượng vị loại cứng, loại mềm
và nhiều thứ sùkara- maddava (một loại mộc nhĩ) rồi báo tin cho ThếTôn: “Bạch
ThếTôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng”
….
Sau khi dùng cơm của
thợ sắt Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh lỵ huyết, đau đớn gần như đến
chết, và Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại chịu đựng cơn bệnh.
Tuy đau đớn cùng cực, nhưng Thế Tôn vẫn cùng Anan và chúng Tỷ kheo đi đến
Kusinàrà. Trên đường đi, hai lần Thế Tôn kêu khát muốn uống nước ngay. Cũng hai
lần Anan trả lời ngài, rằng dòng suối nơi đây vừa có 500 cổ xe vượt qua, bùn đất
vấy đục, không thể uống được. Nhưng ngài vẫn nói lần thứ ba ta khát, muốn uống
nước ngay. Ông Anan đành xuống suối lấy nước thì lạ thay dòng nước trong veo
như chưa từng có 500 chiếc xe vừa vượt qua. Nếu Thế Tôn có phép thần thông làm cho nước suối
trong, thì cớ sao ngài không làm cho mình hết đau đớn và hết khát?
Sau khi đến Kusinàrà, bệnh tình Thế Tôn nặng thêm, ngài nhập nhập diệt
giữa rừng cây sala. Chúng ta từng biết, đức Phật đã ngộ được tam minh. với Túc
mạng minh ngài thấy được muôn vàn kiếp trước. Với Thiên nhãn minh ngài thấy vũ
trụ có nhiều hành tinh đang dịch chuyển. Với Lậu tận minh ngài trong suốt như
pha lê không còn vẫn đục tội lỗi. Ngài làm chủ sinh tử, có thể nhập Niết bàn bất
cứ lúc nào ngài thấy cần thiết. Cớ sao ngài không thấy được món nấm mộc nhĩ của
thợ sắt Cunda có chất độc mà vẫn dùng cho đến nỗi mắc bệnh lỵ huyết, và nhập Niết
bàn khi đau đớn thân xác ?
Có lẽ cũng suy nghĩ như vậy nên những nhà viết kinh Đại Niết Bàn đưa ra
nhiều chi tiết để hợp lý hóa việc làm của Thế tôn như sau đây:
- Này Cunda loại mộc
nhĩ đã soạn sẵn hãy dọn cho ta, còn các món ăn khác đã soạn sẵn, loại cứng và
loại mềm, hãy dọn cho chúng tỷ kheo.
…..
Này Cunda, món ăn mộc
nhĩ còn lại người hãy đem chôn…
Thế Tôn biết chắc ông thợ sắt Cunda
sẽ rất hối hận, vì bữa cơm của mình mà ngài nhiễm bệnh và nhập diệt, nên dặn
Anan phải nói lại với thợ sắt Cunda như thế này:
- Này hiền giả, thật là công đức cho bạn vì được
Như Lai dùng bữa cơm cuối cùng từ bạn cúng dường và nhập diệt, nhờ hành động
này thợ sắt Cunda sẽ được hưởng tuổi thọ, nhờ hành động này thợ
sắt Cunda sẽ được hưởng sắc đẹp, nhờ hành động này thợ
sắt Cunda sẽ được hưởng an lạc, nhờ hành động này thợ
sắt Cunda sẽ được hưởng danh tiếng, nhờ hành động này, thợ sắt Cunda sẽ được hưởng uy quyền…”
Giáo sư Phật học Nàrada người Tích
Lan viết trong sách Đức Phật và Phật pháp đại ý: Thế Tôn biết ngày hôm đó đằng
nào Ngài cũng phải tịch diệt và nhập Niết bàn, cho nên cứ ăn món nấm mà ngài thừa
biết có độc tố cho ông thợ sắt Cunda vui lòng.
Bu tui lại cho rằng lòng cao thượng của một vị Phật không nhất thiết phải ăn một loại nấm mà mình thừa biết có độc tố để nhập Niết bàn trong tình trạng đau đớn
khôn cùng. Ngài có thể báo cho Cunda biết món nấm kia có chất độc, nhưng không
hề khiển trách anh ta cố tình đầu độc mình, chẳng qua anh ta và đám đầu bếp thiếu
kiến thức về thực phẩm mà thôi. Cho dù người chép kinh Đại Niết bàn có biện hộ
cho Thế Tôn, giáo sư Nàrada có bênh vực cho đức Phật đến
cỡ nào thì bu tui vẫn thấy có điều gì không thỏa đáng trong sự tịch diệt của đức
Phật như kinh Đại Niết Bàn nêu ra.
-------------
(1) Những dòng
viết nghiêng là trích nguyên văn từ kinh Đại Niết Bàn thuộc Trường Bộ kinh